“Học” là phạm trù trung tâm của sự sinh tồn cá nhân, cộng đồng quốc gia. Nhà giáo dục Pháp Z. Kijerbo có phát biểu “Sau khi sinh ra con người còn lại là học” UNESCO từng có khuyến cáo: “Ngày nay bất cứ sự tiến bộ nào của cộng đồng quốc gia cũng bắt đầu từ “Việc Học”. Và cộng đồng, quốc gia nào coi thường Việc Học hoặc không biết cách tiến hành hiệu quả thì số phận của cộng đồng, quốc gia đó xem như đã an bài hoặc tồi tệ hơn là sự phá sản”. Sách “Lễ ký” của phương Đông cổ đại từng có thông điệp:“Dựng nước, gìn dân lấy việc học làm đầu” Việt Nam có truyền thống văn hiến lâu đời. Các nhà văn hóa chính trị từng có các phát biểu chứa đựng minh triết sâu sắc về “Học”. Thế kỷ XV, Anh hùng, nhà văn hóa lớn của dân tộc Nguyễn Trãi có lời thơ:
“Nên thợ, nên thầy vì có học
No ăn, no mặc bởi hay làm”
Ba cặp phạm trù: “Ăn-Mặc” (Nhu cầu sinh tồn), “Thợ - Thầy” (Nhu cầu khẳng định thể diện xã hội”, “Học – Làm” (Nhu cầu phát triển) quyện vào nhau trong hai câu thơ hàm súc.
Thế kỷ XVIII, sau khi đại phá quân Thanh, Hoàng đế Quang Trung với sự tham mưu của nhà văn hóa ngoại giao Ngô Thì Nhậm ban Chiếu Khuyến học, nội dung được cô đọng qua thông điệp:
“Xây dựng đất nước lấy việc học làm đầu
Tìm lẽ Trị - Bình lấy tuyển nhân tài làm gốc”
Thời đại mới, Hồ Chí Minh tiếp thu văn minh nhân loại và kế thừa tinh hoa tiền nhân đã chỉ đạo cho Việc Học của dân tộc vừa là sức mạnh, vừa là mục tiêu của công cuộc giải phóng đất nước khỏi sự đô hộ của ngoại bang và giải phóng số phận cá nhân khỏi sự dốt nát.
Ông có những lời dạy, lời bàn sâu đậm tinh thần minh triết giải đáp cho ba câu hỏi căn cốt:
Học để làm gì? Học cái gì? Học thế nào?
Tác động tới từng cá nhân, gia đình, nhà trường và toàn xã hội.
Hồ Chí Minh thể hiện sự Tam hóa (Từ dùng của GS. Tô Duy Hợp) cho phạm trù này:
- Hiện đại hóa tinh hoa tư tưởng của dân tộc
- Việt hóa giá trị tiên tiến của thời đại
- Lành mạnh hóa Việc Học trong các thiết chế xã hội, gia đình, nhà trường theo mục tiêu phát triển bền vững đất nước.
Ông đã gộp ý tưởng, cách làm đặc sắc về Học của dân tộc và thời đại chỉ ra con đường Học hiệu quả cho đất nước trong hoàn cảnh mới.
1) Minh triết “Học để làm việc, Làm người” kiến giải đặc sắc của Hồ Chí Minh từ giữa thế kỷ XX
Tháng 9/1949, lúc đất nước bước vào năm tháng ác liệt cuộc kháng chiến chống Pháp, đến dự khai giảng trường Đảng Nguyễn Ái Quốc, Hồ Chí Minh đã ghi vào trang đầu sổ vàng nhà trường: “Học để làm việc, Làm người, Làm cán bộ. Học để phụng sự đoàn thể, Giai cấp và nhân dân, Tổ quốc và nhân loại”.
GS Trần Văn Nhung, nguyên Thứ trưởng Bộ Giáo dục Đào Tạo lĩnh hội lời dạy của Bác và tiếp thu tư liệu của UNESCO qua cuốn “Học tập Kho báu tiềm ẩn” đã viết thư gửi Bà Tổng giám đốc UNESCO Irina Bokova (gửi ngày 11/7/2014) có nội dung:
“Tôi viết thư này gửi đến Bà để chia sẻ cùng Bà và UNESCO thông tin về việc nửa thế kỷ trước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã góp phần như thế nào để xây dựng nên Bốn trụ cột của giáo dục do UNESCO khuyến nghị năm 1996”. Kèm theo thư, Giáo sư Nhung đã gửi Bút tích của Chủ tịch Hồ Chí Minh viết ở sổ vàng trường Nguyễn Ái Quốc tháng 9/1949.
Ngày 30/11/2014, UNESCO đã phúc đáp thư của Giáo sư Nhung với ghi nhận trang trọng: “Quả thật cách thức nhìn nhận của Chủ tịch Hồ Chí Minh rất gần gũi với bốn trụ cột giáo dục được đề xuất trong Báo cáo của Hội đồng Delors năm 1996 của UNESCO dưới nhan đề “Học tập: một kho báu tiềm ẩn”.
Đề nghị của Giáo sư Nhung được sự cộng hưởng hoan nghênh của Phó thủ tướng Chính phủ - Bộ trưởng Bộ ngoại giao Phạm Bình Minh. Ngày 22/10/2014, Phó thủ tướng có thư gửi GS Nhung: “Tôi hoàn toàn chia sẻ đối với phát hiện của Giáo sư, theo đó đã có sự tương đồng của Triết lý giáo dục của Chủ tịch Hồ Chí Minh với quan điểm của tổ chức UNESCO về giáo dục được nêu trong Báo cáo Delors công bố năm 1996. Tư tưởng Hồ Chí Minh thực sự là Di sản quý báu, cần tiếp tục giới thiệu rộng rãi đến với bạn bè quốc tế”.
Trong quan điểm của Hồ Chí Minh: “Cần – Kiệm – Liêm – Chính” vừa là động lực vừa là mục đích của Học để hoàn thiện nhân cách. Sử liệu cho biết:
Trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ngày 03/9/1945, Hồ Chủ tịch có lời kêu gọi tha thiết: “Chúng ta phải làm cho dân tộc chúng ta trở nên một dân tộc dũng cảm, yêu nước, yêu lao động, một dân tộc xứng đáng với nước Việt Nam độc lập.
Tôi đề nghị mở một chiến dịch giáo dục lại tinh thần nhân dân bằng cách thực hiện Cần – Kiệm – Liêm – Chính
Giáo sư Sử học Trần Quốc Vượng cho biết: Sau khi ghi vào trang đầu số vàng nhà trường lời dạy: “Học để làm việc, làm người…”, Bác nói chuyện thân mật với giảng viên, học viên nhà trường, nêu phương châm “Học” được cô đọng vào 4 chữ H: Học – Hỏi – Hiểu – Hành. “4H” thành triết lý hành động của các nhà trường Việt Nam thời kháng chiến. Nhiều tập thể sư phạm coi “4H” là sợi chỉ đỏ xây dựng "Tổ chức biết học hỏi” (learning organization) trong động thái phát triển văn hóa nhà trường.
2. Từ “Vừa học vừa làm” (03/9/1945) đến “Thi đua dạy tốt, học tốt”(15/10/1968): Những chỉ dẫn thực tiễn sâu sắc nhằm hiện thực minh triết giáo dục “Học để làm việc, làm người”
Di sản giáo dục của Hồ Chí Minh rất phong phú. Ngay từ năm 1930 viết Báo cáo gửi Quốc tế Cộng sản bằng tiếng Anh, Ông đã dùng cụm từ “To make education for all” xác định đường lối của những người Cộng sản Việt Nam về giáo dục trong sự nghiệp giải phóng đất nước.
Ngày nay “Giáo dục cho mọi người – EFA” là phương châm hành động mà UNESCO nêu ra cho mọi quốc gia trong bối cảnh phát triển nền dân chủ xã hội.
Xin nêu dưới đây 12 lời dạy của Hồ Chí Minh từ 03/9/1945 -15/10/1968 là những chỉ dẫn thực tiễn sâu sắc nhằm hiện thực minh triết giáo dục “Học để làm việc, làm người”.
2.1. Vừa làm vừa học – Vừa học vừa làm
Ngày 03-09-1945 trong phiên họp đã nêu bên trên, Hồ Chí Minh có phát biểu: “Sau tám mươi năm bị áp bức, bị bóc lột và dưới chính sách ngu dân của thực dân Pháp, chúng ta đều chưa quen với kĩ thuật hành chính. Nhưng điều đó không làm cho chúng ta lo ngại. Chúng ta vừa làm vừa học, vừa học vừa làm. Chắc rằng, chúng ta sẽ phạm khuyết điểm, nhưng chúng ta sẽ sửa chữa, chúng ta có can đảm sửa chữa khuyết điểm”
“Vừa học vừa làm, Vừa làm vừa học” trở thành phương thức giáo dục tiến bộ cho việc kiến tạo nền giáo dục phổ thông dân chủ, đại chúng trong những năm tháng chống Mỹ cứu nước. Ngày nay là phương thức xây dựng xã hội học tập hữu hiệu trên toàn bộ đất nước ta.
2.2. Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay không…, chính là nhờ một phần lớn ở công học tập của các em
Trong thư gửi học sinh Ngày khai trường (Tháng 9 năm 1945), Bác Hồ viết: “Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay không, dân tộc Việt Nam có bước tới đài vinh quang để sánh vai với các cường quốc năm châu được hay không, chính là nhờ một phần lớn ở công học tập của các em”
Bức thư ngày khai trường năm 1945-1946 không dài, song là văn kiện cương lĩnh có tính lâu dài cho sự phát triển của nền giáo dục Việt Nam, đặc biệt đối với cuộc Đổi mới đang diễn ra khi nhấn mạnh giáo dục phát triển theo năng lực của người học.
2.3. Đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành
Ngày 21/1/1946, trả lời các nhà báo nước ngoài, Hồ Chí Minh nói rõ lý tưởng của mình: “ Tôi chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc là làm sao cho nước ta hoàn toàn độc lập, dân ta hoàn toàn dự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”
Lịch sử giáo dục đã chứng minh không chỉ ở nước ta còn ở nhiều quốc gia khác: chỉ kiến tạo được một nền giáo dục đích thực, cái học đích thực khi đất nước có độc lập, nhân dân có tự do và nhu cầu cơm ăn áo mặc(nhu cầu của sự sinh tồn) được đáp ứng về cơ bản.
2.4. Xây dựng “Gia đình học hiệu”, “Tiểu giáo viên”
Tháng 3/1947 về công tác tại Thanh Hóa, Bác Hồ yêu cầu tỉnh này xây dựng “Thanh Hóa kiểu mẫu” với tinh thần: “Người đủ ăn thì khá giàu / Người khá giàu thì giàu thêm / Người nào cũng biếtchữ / Người nào cũng biết đoàn kết yêu nước”.
Thay mặt Chính phủ, người giao cho cụ Lê Thước và ông Đặng Thai Mai xây dựng Ban văn hóa với nhiệm vụ: “ Ban Văn hoá phải tìm những cách không cần tốn tiền mà học được, như “gia đình học hiệu”, “tiểu giáo viên”, cả làng chung gạo nuôi một thầy giáo. Gia đình học hiệu ngày nay là nhân tố quan trọng mà UNESCO đề ra để xây dựng xã hội học tập tại các quốc gia
2.5. Sự học tập ở trong nhà trường là tương lai của nước nhà
Năm 1947, viết tác phẩm “Đời sống mới”, Người khẳng định: Sự học tập ở trong nhà trường có ảnh hưởng rất lớn cho tương lai của thanh niên và tương lai của thanh niên là tương lai của nước nhà.. Người nêu những việc quan trọng trong đời sống nhà trường:
(i) Dạy cho học sinh biết yêu nước thương nòi
(ii) Dạy cho học sinh có ý chí tự lập – tự cường quyết không chịu thua kém ai, quyết không chịu làm nô lệ
(iii) Phải tẩy sạch óc kiêu ngạo, tự phụ ở học sinh.
(iv) Khuyên học sinh tham gia, tăng gia sản xuất.
Cuộc sống phát triển không ngừng, các loại Nhà trường xuất hiện phong phú trên đất nước ta: Trường chuẩn quốc gia, Trường thân thiện, Trường Chất lượng cao. Song dù có khoác lên mình bất cứ danh hiệu hiện đại nào, Nhà trường Việt Nam đều phải quát triệt bốn việc mà Bác Hồ đã nêu từ năm 1947.
2.6."Lấy tự học làm cốt.” và “ Học ăn, học nói, học gói, học mở".
Năm 1947, tại chiến khu Việt Bắc, Bác Hồ viết tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc”, cuốn sách từng là tài liệu định hướng cho cuộc Cải cách giáo dục lần thứ nhất triển khai năm 1950. Trong tác phẩm này, Bác Hồ giành nhiều trang nói về việc huấn luyện. Bác nhấn mạnh: Lấy tự học làm cốt và hai lần khuyên“ Học ăn, học nói, học gói, học mở”.
“Lấy tự học làm cốt”(là nội lực). Tuy nhiên như Bác chỉ ra còn phải có môi trường (do thảo luận), có sự chỉ đạo (quản lý) thì nội lực mới phát huy được kết quả.
Bối cảnh ngày nay yêu cầu mọi người phải biết: Học cách “Lĩnh hội” (học ăn)/ Học cách “Diễn đạt” (học nói) / Học cách “Triển khai vấn đề" (học mở) / Học cách “Kết thúc vấn đề” (học gói).
2.7. Học không biết chán, dạy không biết mỏi
Ngày 06/05/1950, Trong Hội nghị bàn về công tác Huấn luyện và học tập lần thứ nhất. Đến khai mạc Hội nghị, Bác Hồ có lời dạy: “Lênin khuyên chúng ta “Học, học nữa, học mãi”… Người huấn luyện nào tự cho mình biết đủ cả rồi, thì người đó là dốt nhất…
Khẩu hiệu “Học không biết chán, dạy không biết mỏi” treo trong phòng họp chính là của Không Tử. Tuy Khổng Tử là phong kiến và tuy trong học thuyết của Khổng Tử có nhiều điều không đúng, song những điều hay trong đó thì chúng ta nên học”
Với Khổng Tử, Bác Hồ chắt lọc các tinh hoa về quan điểm áp dụng vào nước mình, song Bác đã thẳng thắn chỉ ra điều mà học thuyết này không còn hợp thời, thí dụ coi thường lao động, hạ thấp vị thế phụ nữ. ..
2.8. Học để sửa chữa tư tưởng, tu dưỡng đạo đức cách mạng, học để tin tưởng, học để hành
Cũng tại hội nghị 06/06/1950, Bác Hồ nêu ra câu hỏi “Học để làm gì?” và giải đáp cho người tham dự:
a) Học để sửa chữa tư tưởng… Tư tưởng đúng thì hành động mới khỏi sai lạc….
b) Học để tu dưỡng đạo đức cách mạng. Có đạo đức cách mạng thì mới hy sinh tận tụy với cách mạng, mới lãnh đạo được quần chúng đưa cách mạng đến thắng lợi hoàn toàn.
c) Học để tin tưởng: Tin tưởng vào đoàn thể, Tin tưởng vào nhân dân, Tin tưởng vào tương lai dân tộc...
d) Học để hành: Học với hành phải đi đôi.
Học không hành thì học vô ích
Hành mà không học thì hành không trôi chảy"
Khổng Tử từng có quan điểm: “Học để Tu thân – Tề gia – Góp phần làm đất nước hưng trị, Thiên hạ thái bình”, F (Học) = f(Tu – Tề - Trị - Bình).
Delors có quan điểm: “Học để biết (Tri), Học để làm (Tạo), Học để chung sống (Hòa), Học để thành người (Thành)”, F (Học) = f (Tri – Tạo – Hòa – Thành).
Hồ Chí Minh đã tạo ra một dấu nối ấn tượng từ truyền thống đến hiện đại.
2.9. Đại học chi đạo, tại minh minh đức, tại thân dân
Ngày 21/7/1958, đến thăm trường Đại học Nhân Dân, nói chuyện với các vị nhân sĩ thủ đô đang tham dự Khóa huấn luyện chính trị, Người có lời tâm tình: “Theo ý riêng của tôi, thì hạt nhân ấy có thể tóm tắt trong 11 chữ “Đại học chi đạo, tại minh minh đức, tại thân dân”.
Người nhấn mạnh thêm:
“Nói tóm tắt: Minh minh đức là chính tâm
Thân dân tức là phục vụ nhân dân
Đặt lợi ích của nhân dân lên trên hết
Ở đây Hồ Chí Minh đã gộp tư tưởng của hai nhà văn hóa lớn Trung Hoa: Tăng Tử (505-435 TCN) và Phạm Trọng Yêm (990-1002) tạo nên phương châm chính trị - giáo dục cho kẻ sĩ Việt Nam thời hiện đại.
Tăng Tử có thông điệp Tân Dân (làm mới dân). Đó là một ý tưởng tiến bộ. Trên nền ý tưởng này Hồ Chí Minh kết hợp với ý tưởng của Phạm Trọng Yêm: biết lo trước dân, biết hưởng sau dân, Người thêm một chữ “H” vào từ Tân, đã làm cho ý tưởng của Tăng Tử (Theo cách diễn đạt tiếng Việt), nhân văn hơn, đằm thắm hơn.
Cuộc Đổi mới giáo dục đang diễn ra phải kiên trì đường lối giáo dục Thân dân mà Hồ Chí Minh đã đề ra: cái gì có lợi cho dân thì làm, cái gì có hại cho dân thì tránh. Viết Di chúc trước lúc đi xa, Hồ Chí Minh nhấn mạnh: Sửa đổi chế độ giáo dục cho hợp với hoàn cảnh mới của nhân dân.
2.10. Học hỏi là một việc phải tiếp tục suốt đời
Cũng ở lần thăm này, Người góp ý với nhân sĩ thủ đô: “Học hỏi là một việc phải tiếp tục suốt đời. Suốt đời phải gắn liền lý luận với công tác thực tế, không ai có thể tự cho mình đã biết đủ rồi, biết hết rồi. Thế giới ngày ngày đổi mới, nhân dân ta ngày càng tiến bộ, cho nên chúng ta phải tiếp tục học và hành để tiến bộ kịp nhân dân”
Ngày nay “Giáo dục thường xuyên” (tác động vào con tim-heart), Đào tạo liên tục (tác đông vào đôi tay-hands), Học tập suốt đời (tác động vào bộ óc-head) vừa phải được mỗi công dân coi là phương châm hành động, vừa phải được nhà quản lý quán triệt trong việc thiết kế, triển khai chính sách quốc gia. Có vậy đất nước mới phát triển bền vững cá nhân mới sống hạnh phúc.
2.11. Học đi đôi với lao động, lý luận đi với thực hành, cần cù đi với tiết kiệm
Ngày 31/12/1958, đến thăm trường Chu Văn An (Trường Bưởi cũ), Hồ Chí Minh có buổi nói chuyện với học trò nhà trường này kết thúc bài nói chuyện, Bác Hồ đề 3 việc cho học trò Chu Văn An: Học đi với lao động // Lý luận đi với thực hành / Cần cù đi với tiết kiệm.
Ba điều Bác Hồ nêu ra cho trường Chu Văn An trở thành nguyên lý giáo dục khi các nhà trường đi vào cuộc kháng chiến chống Mỹ. Ngày nay, nguyên lý này phải được sáng tạo ở bối cảnh mới, hoàn cảnh mới.
2.12. Dù khó khăn đến đâu cũng phải tiếp tục thi đua dạy tốt và học tốt
Ngày 15/10/1968, khai giảng năm học 1968/1969, Bác Hồ viết Bức thư cuối cùng cho ngành Giáo dục có lời căn dặn: “Dù khó khǎn đến đâu cũng phải tiếp tục thi đua dạy tốt và học tốt. Trên nền tảng giáo dục chính trị và lãnh đạo tư tuởng tốt, phải phấn đấu nâng cao chất lượng vǎn hoá và chuyên môn nhằm thiết thực giải quyết các vấn đề do cách mạng nước ta đề ra và trong một thời gian không xa, đạt những đỉnh cao của khoa học và kĩ thuật”.
Sinh thời, Hồ Chí Minh quan tâm đến phẩm chất năng lực của người thày. Bác mong mỏi họ phải phấn đấu là Sư hinh (Người thày cao quý), phải rèn luyện Kĩ thuật dạy học: “Các thầy cô phải tìm cách dạy… dạy thế nào để học trò hiểu chóng, nhớ lâu, tiến bộ nhanh. Trong lúc học cũng cần làm cho chúng vui, trong lúc vui cũng cần làm cho chúng học.
3. Khung mẫu (Paradigm) cho việc Học trong đổi mới giáo dục
3.1. Đổi mới giáo dục và những điều mong ước của Bác Hồ
Đổi mới giáo dục theo tinh thần Nghị quyết 29 (TW khóa XI) là cuộc Đổi mới căn bản, toàn diện nhằm đưa giáo dục thích ứng thời đại công nghệ tin học, hội nhập sâu với thế giới.
Cho dù có những thông điệp mạnh mẽ tới đâu thì với hiện trạng và điều kiện thực tế của đất nước cần nhớ lại những điều mong ước mà Bác Hồ từng di huấn.
Năm 1946, đi công tác ở Pháp về, Bác kêu gọi: Thực hiện sự nghiệp giáo dục làm sao cho dân tộc Việt Nam thành dân tộc thông thái
Năm 1948, Khi cuộc kháng chiến chống Pháp bước vào cục diện mới, Bác yêu cầu ngành giáo dục, tổ chức sự dạy học sao cho nhân dân:
Biết được vệ sinh thường thức để bớt đau ốm
Biết được thường thức khoa học để bớt mê tín nhảm
Biết được bốn phép tính để làm ăn có ngăn nắp
Biết lịch sử địa lý để nâng cao lòng yêu nước
Biết được đạo đức công dân để trở thành người công dân đứng đắn
Những lời nhắn nhủ của Bác Hồ từ mức tối đa đến mức tối thiểu còn giữ nguyên tính thời sự trong bối cảnh hiện nay
Điều căn cốt của cuộc đổi mới giáo dục lần này phải tập trung vào việc kiến tạo được “Khung mẫu của việc Học”sao cho mỗi người có trách nhiệm trong cuộc Đổi mới: Người học – Người dạy, Người quản lý dạy học cùng có Tư duy – Hành động thống nhất với nhau để Học hiệu quả, Dạy hiệu quả và Quản lý dạy học hiệu quả.
Minh triết giáo dục của Hồ Chí Minh nói chung, đặc biệt một số lời dạy của Hồ Chí Minh dẫn ra ở phần 1, phần 2 phải luôn luôn là kim chỉ nam cho Khung mẫu này.
3.2. Khung mẫu (Paradigm) bao gồm 12 nhân tố bố trí trên 3 tứ giác
Ba tứ giác vừa có chức năng đặc thù vừa liên thuộc với nhau.
(I) Tứ giác đặc trưng choNhóm nhân tố phát năng: Xác định bốn giá trị mà người học cần rèn luyện để động lực học và mục đích học thống nhất với nhau. Đó là “Cần – Kiệm – Liêm – Chính”.
(II) Tứ giác đặc trưng cho Nhóm nhân tố bệ phóng: đề xuất bốn hành động mà người cần thực hiện để “học hiệu quả”. Đó là “Học tập – Học tư – Học hành – Tự học”.
(III) Tứ giác đặc trưng cho Nhóm nhân tố thúc đẩy: khuyến nghị bốn công việc mà người học cần tu dưỡng để học vấn và đạo đức quyện vào nhau tiến tới nhân cách toàn vẹn. Đó là “Sống khuyến thiện – Sống tình nghĩa – Sống có hoài bão - Sống vì sự phồn vinh của tổ quốc”.
Khung mẫu của việc Học
3.3. Quán triệt những lời dạy của Hồ Chí Minh để học vấn – đạo đức hội tụ với nhau trong nhân cách phát triển toàn vẹn
(I) Lời dạy về Cần – Kiệm – Liêm – Chính &“Thiếu một đức thì không thành người”
Tháng 6/1959, Bác Hồ viết tác phẩm Cần – Kiệm – Liêm – Chính, có lời dạy:
“Trời có bốn mùa: Xuân, Hạ, Thu, Đông,
Đất có bốn phương: Đông, Tây, Nam, Bắc,
Người có bốn đức: Cần, Kiệm, Liêm, Chính,
Thiếu một mùa thì không thành trời,
Thiếu một phương thì không thành đất,
Thiếu một đức thì không thành người”
(II) Lời dạy về “Học tập – Học Tư - Học hành” và “ Tự học”
Cũng ở tác phẩm trên, trong mục “Cần”, Bác Hồ khuyên: “Siêng học tập thì mau tiến bộ”; “Siêng nghĩ ngợi thì hay có sáng kiến”; “Siêng làm thì nhất định thành công”.
Năm 1950, khi bàn về công tác Học tập và Huấn luyện Người có lời căn dặn: “Không phải có thày thì học, thày không đến thì đùa, phải biết tự động học tập”
(III) Lời dạy về Khuyến thiện
Năm 1968, chỉ đạo nhóm làm sách “ Người tốt, Việc tốt”, Bác Hồ có lời dạy: “Mỗi con người đều có thiện và ác ở trong lòng,Ta phải biết làm sao cho phần tốt ở trong mỗi con người nảy nở như hoa mùa xuân và phần xấu mất dần đi…”
(IV) Lời dạy về sống có tình có nghĩa
Cũng trong lần làm việc trên, Bác Hồ còn có lời nhắn nhủ: “Hiểu chủ nghĩa Mác-Lênin là phải sống với nhau có tình, có nghĩa. Nếu thuộc bao nhiêu sách mà sống không có tình, có nghĩa thì sao gọi là hiểu chủ nghĩa Mác-Lênin được”.
“Giá trị học” quan niệm: Tình (tấm lòng), Nghĩa (trách nhiệm) là hai giá đỡ cho nhân cách mỗi con người.
(V) Lời dạy về sống có hoài bão
Tháng 9/1950, trên đường đi chiến dịch biên giới, ghé thăm một đơn vị thanh niên xung phong. Người có lời khuyên: “Không có việc gì khó/ Chỉ sợ lòng không bền/ Đào núi và lấp biển / Quyết chi ắt làm nên”.
(VI) Lời dạy về “Sống vì sự phồn vinh của Tổ quốc”
Ngày 19-01-1955, Bác Hồ có lời căn dặn sinh viên tại buổi lễ khai mạc trường Đại học nhân dân Việt Nam: “Nhiệm vụ của thanh niên không phải là đòi hỏi nước nhà đã cho mình những gì, mà phải tự hỏi mình đã làm gì cho nước nhà? Mình phải làm thế nào cho ích nước, lợi nhà nhiều hơn? Mình đã vì lợi ích nước nhà mà hy sinh, phấn đấu đến chừng nào?”./.
Đ.Q.B
3. Khung mẫu (Paradigm) cho việc Học trong Đổi mới giáo dục
3.1. Đổi mới giáo dục và những điều mong ước của Bác Hồ
Đổi mới giáo dục theo tinh thần NQ 29(TW khóa XI) như những lời tuyên bố là cuộc Đổi mới căn bản, toàn diện nhằm đưa giáo dục thích ứng thời đại công nghệ tin học, hội nhập sâu với thế giới.
Cho dù có những thông điệp mạnh mẽ tới đâu thì với hiện trạng và điều kiện thực tế của đất nước cần nhớ lại những điều mong ước mà Bác Hồ từng di huấn
Năm 1946, đi công tác ở Pháp về, Bác kêu gọi: Thực hiện sự nghiệp giáo dục làm sao cho dân tộc Việt Nam thành dân tộc thông thái
Năm 1948, Khi cuộc kháng chiến chống Pháp bước vào cục diện mới, Bác yêu cầu ngành giáo dục, tổ chức sự dạy học sao cho nhân dân:
Biết được vệ sinh thường thức để bớt đau ốm
Biết được thường thức khoa học để bớt mê tín nhảm
Biết được bốn phép tính để làm ăn có ngăn nắp
Biết lịch sử địa lý để nâng cao lòng yêu nước
Biết được đạo đức công dân để trở thành người công dân đứng đắn
Những lời nhắn nhủ của Bác Hồ từ mức tối đa đến mức tối thiểu còn giữ nguyên tính thời sự trong bối cảnh hiện nay
Điều căn cốt của cuộc đổi mới giáo dục lần này phải tập trung vào việc kiến tạo được “Khung mẫu của việc Học”sao cho mỗi người có trách nhiệm trong cuộc Đổi mới: Người học – Người dạy, Người quản lý dạy học cùng có Tư duy – Hành động thống nhất với nhau để Học hiệu quả, Dạy hiệu quả và Quản lý dạy học hiệu quả.
Minh triết giáo dục của Hồ Chí Minh nói chung, đặc biệt một số lời dạy của Hồ Chí Minh dẫn ra ở phần 1, phần 2 phải luôn luôn là kim chỉ nam cho Khung mẫu này.
3.2. Khung mẫu (Paradigm) bao gồm 12 nhân tố bố trí trên 3 tứ giác
Ba tứ giác vừa có chức năng đặc thù vừa liên thuộc với nhau.
(I) Tứ giác đặc trưng choNhóm nhân tố phát năng: Xác định bốn giá trị mà người học cần rèn luyện để động lực học và mục đích học thống nhất với nhau. Đó là “Cần – Kiệm – Liêm – Chính”.
(II) Tứ giác đặc trưng cho Nhóm nhân tố bệ phóng: đề xuất bốn hành động mà người cần thực hiện để “học hiệu quả”. Đó là “Học tập – Học tư – Học hành – Tự học”.
(III) Tứ giác đặc trưng cho Nhóm nhân tố thúc đẩy: khuyến nghị bốn công việc mà người học cần tu dưỡng để học vấn và đạo đức quyện vào nhau tiến tới nhân cách toàn vẹn. Đó là “Sống khuyến thiện – Sống tình nghĩa – Sống có hoài bão - Sống vì sự phồn vinh của tổ quốc”.
3.3. Quán triệt những lời dạy của Hồ Chí Minh để học vấn – đạo đức hội tụ với nhau trong nhân cách phát triển toàn vẹn
(I) Lời dạy về Cần – Kiệm – Liêm – Chính &“Thiếu một đức thì không thành người”
Tháng 6/1959, Bác Hồ viết tác phẩm Cần – Kiệm – Liêm – Chính, có lời dạy:
“Trời có bốn mùa: Xuân, Hạ, Thu, Đông,
Đất có bốn phương: Đông, Tây, Nam, Bắc,
Người có bốn đức: Cần, Kiệm, Liêm, Chính,
Thiếu một mùa thì không thành trời,
Thiếu một phương thì không thành đất,
Thiếu một đức thì không thành người”
[2, tập 6: tr.117].
(XV)
|
(II) Lời dạy về “Học tập – Học Tư - Học hành” và “ Tự học”
Cũng ở tác phẩm trên, trong mục “Cần”, Bác Hồ khuyên:
“Siêng học tập thì mau tiến bộ”
“Siêng nghĩ ngợi thì hay có sáng kiến”
“Siêng làm thì nhất định thành công”
[2, tập 6: tr.118].
(XVI)a
|
Năm 1950, khi bàn về công tác Học tập và Huấn luyện Người có lời căn dặn:
“Không phải có thày thì học, thày không đến thì đùa, phải biết tự động học tập” [2, tập 6, tr.370].
(XVI)b (XV
|
(III) Lời dạy về Khuyến thiện
Năm 1968, chỉ đạo nhóm làm sách “ Người tốt, Việc tốt”, Bác Hồ có lời dạy:
“Mỗi con người đều có thiện và ác ở trong lòng,Ta phải biết làm sao cho phần tốt ở trong mỗi con người nảy nở như hoa mùa xuân và phần xấu mất dần đi…” [2, tập 15, tr.472]
(XVII)
|
(IV) Lời dạy về sống có tình có nghĩa
Cũng trong lần làm việc trên, Bác Hồ còn có lời nhắn nhủ:
“Hiểu chủ nghĩa Mác-Lênin là phải sống với nhau có tình, có nghĩa. Nếu thuộc bao nhiêu sách mà sống không có tình, có nghĩa thì sao gọi là hiểu chủ nghĩa Mác-Lênin được”. [2, tập 15, tr.688].
(XVIII)
|
“Giá trị học” quan niệm: Tình (tấm lòng), Nghĩa (trách nhiệm) là hai giá đỡ cho nhân cách mỗi con người.
(V) Lời dạy về sống có hoài bão
Tháng 9/1950, trên đường đi chiến dịch biên giới, ghé thăm một đơn vị thanh niên xung phong. Người có lời khuyên:
“Không có việc gì khó
Chỉ sợ lòng không bền
Đào núi và lấp biển
Quyết chi ắt làm nên”
[2, tập 6, tr.440]
(XIX)
|
Bác cảm tác từ lời thơ trong “Ấu học ngũ ngôn thi” mà thuở thơ ấu được ông ngoại và thân phụ truyền dạy:
"Đạc thông sơn đại hải
Luyện thạch bồ thanh thiên
Thế thượng vô nan sự
Nhân tâm tự bất kiên"
(Đào núi đắp đường thông qua biển
Luyện đá vá trời xanh
Trên đời này không có gì khó cả
Cái khó là do con người không kiên định)
(VI) Lời dạy về “Sống vì sự phồn vinh của Tổ quốc”
Ngày 19-01-1955, Bác Hồ có lời căn dặn sinh viên tại buổi lễ khai mạc trường Đại học nhân dân Việt Nam
“Nhiệm vụ của thanh niên không phải là đòi hỏi nước nhà đã cho mình những gì, mà phải tự hỏi mình đã làm gì cho nước nhà? Mình phải làm thế nào cho ích nước, lợi nhà nhiều hơn? Mình đã vì lợi ích nước nhà mà hy sinh, phấn đấu đến chừng nào?” [2, tập 9, tr.265]
(XX)
|
GS Trần Văn Nhung cung cấp tư liệu: Năm 1961, trong diễn văn nhận chức Tổng thống Mỹ, Kennydi đã nói điều tương tự: “Đừng hỏi tổ quốc có thể làm gì cho bạn mà hãy hỏi bạn có thể làm gì cho Tổ quốc”.
---------------------------------------------------------------------------------------------------------------------
* Các tác giả tri ân GS.TSKH Trần Văn Nhung. GS.TS Tô Duy Hợp, những người đã gợi mở nhiều điểm tựa tư duy cho việc triển khai các ý tưởng của bài viết này.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
· Hoàng Ngọc Hiến 2011), Luận bàn về Minh Triết và Minh Triết Việt, Nxb. Tri Thức, Hà Nội
· Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2011.
· Jacques Delors (2012), Học tập: Một kho báu tiềm ẩn, Nxb. Giáo dục, Hà Nội.
· Phạm Minh Hạc (2014), Giá trị học, Nxb Dân Trí, Hà Nội.
· Trần Văn Nhung (2016), Sộp thành nhà giáo, Nxb. Giáo dục Việt Nam, Hà Nội.
· Trường CBQLGDĐT(1997), Công tác quản lý hành chính sư phạm của hiệu trưởng.
· Raja Roy Singh (1998), Nền giáo dục cho thế kỷ hai mươi mốt: Những triển vọng của Châu á - Thái Bình Dương, Viện Khoa học giáo dục Việt Nam, Hà Nội.
· Khoa Sử - ĐHKHXH&NV HN (2011), 55 năm ấy, NXB Thế giới, Hà Nội.
PGS.TS. Đặng Quốc Bảo