Điều đó càng được tôn vinh nhiều hơn bởi sự có mặt của đồng chí Chu Ngọc Anh - Ủy viên dự khuyết TW Đảng, Phó Bí thư, Chủ tịch UBND tỉnh; nhà thơ Hữu Thỉnh - Bí thư Đảng đoàn, Chủ tịch UBTQ Liên hiệp các Hội VHNT Việt Nam; các đồng chí nguyên là lãnh đạo Tỉnh ủy, UBND tỉnh; các Ban của Đảng, các sở, ngành, đoàn thể; các nhà khoa học, nhà lý luận phê bình văn học, các nhà báo, nhà thơ, nhà văn ở Trung ương và địa phương cùng đông đảo quần chúng yêu thơ, gia đình của hai nhà thơ… đã tới dự và chia vui trong niềm cảm xúc trân trọng.
Nhà thơ Kim Dũng - qua cái nhìn đa chiều cùng thái độ đọc, hiểu nghiêm túc, trân trọng, Giáo sư Phong Lê đã khẳng định: Trong tư cách của một nhà thơ, nhà giáo, nhà quản lý giáo dục, báo chí, văn hóa, văn nghệ ở địa phương - cái vốn trải nghiệm của Kim Dũng hẳn là rất phong phú - để qua thơ mà biết về một hồn thơ chắc không phải là chín muộn mà là được chuẩn bị sớm, nhưng quả bây giờ vẫn có những chùm mọng. Đọc thơ Kim Dũng, ta nhận ra trước nhất quê hương Phú Thọ của ông cùng những dấu ấn Đất Tổ với những địa chỉ riêng, vừa thiêng liêng vừa gần gũi là món quà quê ông dành tặng cuộc đời. Thơ Kim Dũng đến từ nhiều nguồn cảm hứng, mà trước hết là cảm hứng lịch sử, cảm hứng thế sự, cảm hứng với các văn nhân, thi nhân và sâu xa hơn là những đúc kết, triết lý về cõi nhân sinh được rút ra từ những gì thẳm sâu nhất để cho mình có được niềm tin và chỗ dựa. Một đời làm thơ, chung thủy với nghiệp thơ, qua tám tập thơ đã xuất bản là những đóng góp rất đáng trân trọng đối với một người làm thơ ở địa phương như Kim Dũng. Bàn về thơ ông, nhà thơ Vũ Quần Phương cho rằng những rung động trong thơ Kim Dũng là niềm rung động hài hòa giữa cá nhân và cộng đồng, tình cảm đất nước và ý thức công dân tràn đầy trong mọi đề tài. Thơ Kim Dũng thuộc tạng tâm hồn, thuộc khuynh hướng cảm xúc nơi ông - đó là phẩm chất đôn hậu, đằm thắm, giàu tình nghĩa và thấm đẫm phong vị truyền thống dân tộc. Trong phương pháp tư duy, hình như ông ưa tìm về những chân lý có sẵn đã thành khuôn phép phổ thông hơn là triển khai, mở ra những nhận thức mới, cách hành xử mới, thực tế hơn, khả thi hơn. Kim Dũng thành công trong việc đánh thức phần cảm xúc cố hữu trong lòng người đọc, nhất là ở thể thơ lục bát. Tuy nhiên, nhìn về tổng thể thì "thơ Kim Dũng hình như buồn nhiều hơn vui…" - đó là ý kiến của nhà phê bình văn học Nguyên An. Điều này được Nguyên An dẫn chứng qua các tập "Lòng tay hình châu thổ", "Dấu ấn thời gian" và "Lục bát tôi yêu" - nhưng đó là nỗi buồn, nét buồn lặng lẽ từ cả một sự chiêm nghiệm dài lâu, kỹ lưỡng về cuộc đời và lẽ đời. Nỗi buồn ấy không hề ngẫu nhiên mà có nguyên cớ sâu xa từ chính cuộc đời nhà thơ, trong hoàn cảnh riêng mà ông đã trải. Nó không điệu đà làm dáng như nhiều người vẫn làm mà nó chân thật, tự nhiên như vốn có, nó ảo mờ sương khói vừa như của hôm nay, lại vừa như của những giờ khắc nào khác nữa. Thơ Kim Dũng là dòng chảy của những tự sự, khát vọng đẹp của đời sống - nhà thơ Nguyễn Đình Phúc, khẳng định - nói cách khác, chủ đề hình thành nên thơ ông có hai vệt cảm xúc trữ tình, đó là tự sự trữ tình và trữ tình thế sự, đôi khi sự hòa quện giữa chúng lại đồng thời nói lên phong cách sáng tác của tác giả. Đọc thơ ông, ta thấy như ông cầm trên tay mình ngọn cỏ ảo giác, tự cảm lòng mình, gợi lên triết lý tri âm, tri tình sâu nặng làm ta thấy nóng lên những cảm xúc nồng nàn, vừa lắng đọng vừa tự đầy lên hay hao khuyết một phía của lòng mình…
Với nhà thơ Nguyễn Hưng Hải thì sự xuất hiện lại bắt nguồn ở một khía cạnh khác, hành trình của nhà thơ ngũ thập tri thiên mệnh này sinh ra ở một vùng đồi trung du đá sỏi khô cằn với bao nhọc nhằn, lam lũ đã ghi những dấu ấn không thể nào quên trong tâm hồn ông. Nhà thơ Trần Quang Quý từng phẩm bình thơ Nguyễn Hưng Hải: Dấu ấn làng quê, dòng sông, cánh đồng, củ sắn, bờ tre… là hàng loạt thi ảnh về quê hương thân thuộc được tái hiện trong thơ Nguyễn Hưng Hải. Nó không chỉ bày lộ gốc gác chính hiệu nông thôn của ông mà còn nói lên sự quan tâm sâu sắc nhất, máu thịt nhất trong đời thơ Nguyễn Hưng Hải. Có thể nói, ông quan tâm đến nhiều thể loại, nhiều đề tài, nhưng không khó để nhận ra mạch thơ chủ đạo để lại dấu ấn mạnh mẽ nhất vẫn là những ám ảnh, day trở, suy tư về thế và phận người, về những giá trị của đời sống, nhất là trong thơ viết về quê hương, gia đình, người thân ở vùng trung du thăm thẳm nỗi đời, thăm thẳm nỗi người của ông. Dường như trước bất kỳ một hiện tượng, một mối quan hệ nào đó cũng có thể làm cho Nguyễn Hưng Hải động lòng trắc ẩn. Ông riết róng với những mối quan tâm, những câu hỏi về thật, giả và có lẽ vì thế mà ông hay tự đày ải tinh thần mình - nỗi khổ của một tâm thế luôn bất bình với những ngang trái, những thói đời, những tâm sự thời cuộc, những thế sự người. Rõ ràng có một Nguyễn Hưng Hải đầy mẫn cảm và cảnh giác, cảnh giác mà vẫn ngu ngơ, lại phân tâm, luôn soi chiếu những góc cạnh về thế phận, nhân cách, được chưng cất từ những đổ vỡ, những va đập của đời. Bên cạnh đó, thơ Nguyễn Hưng Hải còn là những tiếng vọng của tâm thế thời đại - nhà văn Văn Chinh khẳng định - cứ miên man vào sâu trong tứ thơ ông, ta sẽ gặp chiều sâu nhân bản mà dẫu bị giam triệt để vào cõi không, cõi tịch diệt thì nó vẫn buông tín hiệu mà hễ cứ có người là có thu nhận tín hiệu ấy. Tất nhiên, trong nỗ lực làm mới mình, không phải lúc nào Nguyễn Hưng Hải cũng thành công, mức độ thành công cũng khác nhau tùy thuộc vào độ nhu nhuyễn giữa tình và thế, giữa hình tượng và cách lập tứ. Với thơ Nguyễn Hưng Hải, nhà giáo Đỗ Nguyên Thương lại luôn chú ý đến nhưng bài thơ, câu thơ viết về người phụ nữ. Chị phân tích, hình ảnh người phụ nữ trong thơ Nguyễn Hưng Hải mang đầy đủ vẻ đẹp truyền thống cốt cách tinh thần, sự hy sinh, trách nhiệm và trên hết là tình yêu đối với gia đình, với chồng, con. Bên cạnh những yếu tố truyền thống, người phụ nữ Việt Nam còn mang nhiều yếu tố hiện đại trong thời buổi kinh tế thị trường hiện nay. Người thơ Nguyễn Hưng Hải luôn đau đáu thương, đau đáu yêu không chỉ với bà, với mẹ, với vợ và con gái của mình, anh còn nâng niu, xót xa cho những cảnh đời éo le khác mà bỗng nhiên một ngày anh bắt gặp ở đâu đó ngoài đời. Còn với nhà lý luận phê bình Lê Thành Nghị, khi bàn về tính chuyên nghiệp trong thơ Nguyễn Hưng Hải thì nói rằng nhà thơ đã đạt được tiêu chí đó, thể hiện ở chỗ ông đã có thể đưa bất cứ chất liệu cảm xúc nào vào thơ vì ông là người chăm chỉ lao động, chăm chỉ cày bừa, gặt hái trên cánh đồng chữ, không ngại thất bát, không sợ chắc lép. Thái độ dấn thân ấy thật đáng ghi nhận nhưng cũng chính từ cách làm đó lại sinh ra một hệ lụy khác mà hình như điều này lại là cốt tử của văn chương nghệ thuật, rằng "Quý hồ tinh bất quý hồ đa" như ông cha ta vẫn thường nói…
Nhà thơ Hữu Thỉnh khẳng định: Suốt chặng đường thơ đầy gian nan ấy, hai nhà thơ đã gặt hái được khá nhiều thành công. Ở họ toát lên nét chung là luôn tha thiết, gắn bó với quê hương, với mảnh đất cội nguồn dân tộc, cả hai đều đã trải qua nhiều biến cố thăng trầm của đời sống, đời thơ mà vẫn giữ những nét riêng khác biệt. Nếu Kim Dũng thanh đạm, chân chất và lắng đọng thì Nguyễn Hưng Hải nồng nã, biến ảo và tràn đầy. Chính những điều đó đã tạo nên cá tính riêng, phong cách riêng trên con đường sáng tạo văn chương của họ. Và, trong chính những gian khó ấy, trong cái riêng ấy mà những hạt giống thi ca bật thức, cựa mầm và trỗi dậy.
Bằng những nỗi niềm, những dự cảm chan chứa tình đất, tình người, tình quê, hai ông đã không ngừng phát triển cảm xúc để cống hiến, dâng tặng cho đời những thi phẩm đầy giá trị. Sự nghiệp của hai ông đã đóng góp cho nền thi ca nước nhà và văn học nghệ thuật Đất Tổ ngày thêm khởi sắc. Và đây cũng chính là biểu hiện cao đẹp của sự tự ý thức, tự học hỏi, tự vươn lên rất đáng trân trọng của nhà giáo, nhà thơ Kim Dũng - người vẫn được mệnh danh là "3 in 1" và nhà thơ Nguyễn Hưng Hải. Sự học ấy không dừng lại ở tuổi tác, không dừng lại bởi thời gian mà nó vẫn đang ngày ngày phát triển và nở rộ như những bông hoa mùa xuân đầy hương sắc.
Lược thuật của Vũ Kim Liên