Trường Đại học là trung tâm chuyên về giáo dục, phát triển nguồn nhân lực, vì thế cần phải tạo điều kiện cho sinh viên trở thành những người học tập thường xuyên, học tập suốt đời bằng cách phát triển nhu cầu, động cơ nhận thức và kỹ năng tự học cho họ. Phát triển nhu cầu nhận thức và hình thành kỹ năng tự học cho sinh viên trong các trường Đại học là một trong những điều kiện quan trọng để góp phần xây dựng và triển khai mô hình “công dân học tập”.
Từ khoá: Phát triển nhận thức; công dân học tập; cách mạng công nghiệp 4.0; giáo dục đại học
I. Đặt vấn đề
Trong công cuộc hội nhập và đua tranh toàn cầu của người Việt Nam, có lẽ điều mà chúng ta cần hội nhập đầu tiên và mạnh mẽ nhất, đó là hội nhập về tri thức. Và trong công cuộc hội nhập về tri thức ấy, lĩnh vực cần phải hội nhập trước nhất và quyết liệt nhất chính là lĩnh vực giáo dục.
Thực tiễn cho thấy, muốn có một nước Việt Nam mới, một nước Việt Nam thịnh vượng và văn minh, thì phải có những con người Việt Nam mới, những con người được nuôi dưỡng tâm hồn, được khai sáng trí tuệ và rèn luyện thể chất tốt. Điều này chỉ có thể có được khi chúng ta có một nền giáo dục mới, một nền giáo dục hội nhập và sánh vai với thế giới. Muốn có một nền giáo dục như vậy, phải dựa và nhiều yếu tố, một trong những yếu tố đầu tiên và không thể thiếu đó là phải có tư duy mới, tầm nhìn mới, tri thức mới cho giáo dục, cụ thể là cho năm chủ thể quan trọng nhất của giáo dục, đó là: nhà nước, nhà trường, nhà giáo, gia đình và người học.[1] Và để thực hiện được mục tiêu này, phải xây dựng được một mô hình “công dân học tập” góp phần xây dựng xã hội hiện đại. Đây không phải là trách nhiệm của riêng ngành giáo dục mà là trách nhiệm của toàn dân, của toàn xã hội. Song, nguồn nhân lực bao gồm cả lực lượng tham gia vào lao động xã hội và việc hiện đại hóa quan niệm hành vi cho con người không thể áp đặt, mà phải thông qua hai con đường chính là hoạt động và giáo dục. Vì vậy, ở đây chúng ta sẽ đề cập chủ yếu tới con đường thông qua giáo dục nhà trường, trong đó nhà trường phải quan tâm phát triển cho người học nhu cầu nhận thức – một nhu cầu tinh thần đặc trưng ở con người. Để đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa- hiện đại hóa trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0, cần có một nguồn nhân lực phát triển ở trình độ cao, luôn luôn đổi mới, cập nhật kỹ thuật cao, có phong cách sống mới: năng động, khả năng thích nghi cao và sáng tạo. Những điều đó chỉ có thể thực hiện được trong một xã hội mà ở đó mọi công dân luôn được tạo điều kiện học tập thường xuyên, liên tục nhằm không ngừng nâng cao trình độ nghề nghiệp và khả năng hội nhập với xã hội ngày càng văn minh, hiện đại. Như vậy, học tập là một đặc trưng mới của xã hội hiện đại. Công dân học tập là một xu thế phát triển tất yếu như là kết quả của sự phát triển nhanh chóng của khoa học công nghệ, của xu thế toàn cầu hóa, của sự chuyển đổi từ kinh tế công nghiệp sang kinh tế tri thức. Ngày nay, mọi quốc gia trên thế giới đều đã và đang xây dựng và triển khai mô hình “công dân học tập” và ở nước ta việc xây dựng và triển khai mô hình “công dân học tập” được xem là một nhiệm vụ chiến lược.
Giáo dục đại học giữ vai trò quan trọng trong phát triển nguồn nhân lực theo các lĩnh vực chuyên môn cho đối tượng công dân là người lớn. Việc phát triển nhu cầu nhận thức cho sinh viên các trường Đại học là một trong những yếu tố thúc đẩy năng lực tự giáo dục, tư hoàn thiện bản thân cho sinh viên và gây lan tỏa cho các đối tượng khác trong cộng đồng theo mạng lưới các lĩnh vực nghề nghiệp, góp phần xây dựng và triển khai mô hình “công dân học tập” trong giao đoạn cuộc cách mạng công nghiệp 4.0.
II. Nội dung
1. Nhu cầu nhận thức là nhu cầu về tri thức, nhu cầu hiểu biết, nhu cầu về thông tin có liên quan đến sự tồn tại và phát triển của con người. Sự thỏa mãn những nhu cầu này có ý nghĩa to lớn đối với đời sống cá nhân và xã hội. Có nhiều bằng chứng cho thấy nhu cầu nhận thức là điều kiện tất yếu cho sự tồn tại của chính bản thân con người. Các nghiên cứu tâm lý học cho thấy[2], nhu cầu nhận thức ở người xuất hiện từ rất sớm, ngay từ khi đứa trẻ còn rất nhỏ nó đã tích cực tìm hiểu thế giới xung quanh. Tuy nhiên, trẻ bị hạn chế bởi sự phát triển chậm chạp của những kỹ xảo điều chỉnh các hành động của mình. Vì vậy, trẻ rất cần được giúp đỡ để có thể thích ứng và tồn tại trong môi trường sống xung quanh nó. Như vậy, nhu cầu nhận thức là đòi hỏi của con người về việc tìm tòi tiếp thu cái mới, cái chưa có trong kinh nghiệm cá nhân mà họ cần được thỏa mãn để phát triển. Nhu cầu nhận thức được phản ánh vào ý thức dưới dạng cảm giác thiếu thốn thông tin. Đối tượng của nhu cầu nhận thức là những kinh nghiệm, kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo mới, chưa từng có trong hệ thống kinh nghiệm cá nhân. Những đối tượng này được phản ánh trong ý thức, trở thành động cơ nhận thức. Trong điều kiện đó, động cơ nhận thức được hiểu là nội dung đối tượng của nhu cầu nhận thức, nghĩa là trong điều kiện nội dung kiến thức, kỹ năng kỹ xảo được chủ thể ý thức, có tác dụng thúc đẩy hoạt động của chủ thể thì trở thành động cơ nhận thức.
Nhu cầu nhận thức có mối quan hệ chặt chẽ với nhu cầu học tập. Theo nghĩa rộng nhất, học tập là học và luyện tập để hiểu hiết, để có kỹ năng. Dưới góc độ tâm lý học, học tập là đặc trưng của con người được điều khiển một cách tự giác để lĩnh hội tri thức, kỹ năng, kỹ xảo mới, những hình thức hành vi mới…. Học tập xuất hiện với tư cách là một hoạt động nhờ phương pháp nhà trường. Học tập là một dạng của hoạt động nhận thức của con người. Cả hoạt động nhận thức và hoạt động học tập đều là điều kiện tất yếu cho sự phát triển của con người, làm phong phú hơn các tri thức, kỹ năng, kỹ xảo cho con người và đều là sự phát hiện ra một cái gì đó mới mẻ một cách khách quan đối với họ. Mặc dù nhu cầu nhận thức có nội dung đối tượng phong phú hơn so với nhu cầu học tập, song nếu xem xét trong phạm vi của hoạt động học tập, thì nhu cầu nhận thức là nhu cầu đối với việc tiếp nhận đối tượng hoạt động học. Do đó, đối tượng thỏa mãn nhu cầu nhận thức đồng thời là đối tượng của nhu cầu học tập. Và như vậy, lúc này nhu cầu nhận thức trở thành nhu cầu học tập. Đây là kết quả của quá trình phát triển của nhu cầu nhận thức trong tiến trình phát triển của đời người.
Sinh viên Đại học đặc trưng bởi sự khả năng tư duy sâu sắc, năng lực trí tuệ cao, vốn kiến thức về môi trường xã hội rộng. Sinh viên rất quan tâm đến việc phát triển các kĩ năng, cách ứng xử mới, mong muốn thể nghiệm mình trong mọi lĩnh vực của cuộc sống, chuẩn bị sẵn sàng đối diện với xã hội. Đây là thời kỳ có nhiều biến đổi mạnh mẽ về động cơ, về thang giá trị xã hội. Sự trưởng thành về mặt xã hội cùng với nỗ lực, sự kỳ vọng đối với nghề nghiệp tương lai cho thấy nhu cầu và khả năng tự giáo dục của sinh viên được nâng cao. Do đó, hiệu quả phát triển nhu cầu nhận thức cho sinh viên có điều kiện thực hiện tốt.
2. Hiện nay nước ta đang đẩy mạnh quá trình Công nghiệp hóa hiện đại hóa trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0. Sự nghiệp hiện đại hóa chỉ có thể thành công khi nó được những con người hiện đại hóa thực hiện. Quan niệm hành vi hiện đại là then chốt, là nội hạt của hiện đại hóa, đồng thời cũng là điều khó hình thành nhất. Như vậy, để hiện đại hóa quan niệm và hành vi cho con người, trước hết cần phải dựa vào quá trình giáo dục. Các nhà nghiên cứu đã đưa ra 12 đặc trưng cơ bản cơ bản của con người hiện đại và quy chúng vào các nhóm phẩm chất là: mưu cầu biến đổi, trọng tri thức, tự tin và cởi mở. Đây được xem như những tiêu chí để đánh giá con người hiện đại. Trong số 12 phẩm chất đưa ra, có những phẩm chất cụ thể như:
- Sẵn sàng tiếp thu những kinh nghiệm mới mẻ, những tư tưởng mới và những phương thức hành vi mới.
- Sẵn sàng tiếp thu những cải cách và những biến đổi xã hội.
- Có thái độ tôn trọng những cách suy nghĩ, nhìn nhận khác nhau mọi mặt.
- Tôn trọng tri thức, dốc hết khả năng thu nhận tri thức.
- Hiểu về sản xuất và quá trình sản xuất.
- Hiểu biết, tôn trọng lẫn nhau[3]
Trên thực tế, bản thân quá trình sản xuất công nghiệp hiện đại hóa cũng có thể bồi dưỡng phẩm chất con người hiện đại. Song, nguồn nhân lực theo nghĩa đầy đủ nhất bao gồm những con người đang và sẽ tham gia vào lao động xã hội. Vì thế, phát triển nguồn nhân lực là nhiệm vụ của giáo dục và đào tạo, nhằm cung cấp cho xã hội những người lao động thỏa mãn các yêu cầu xã hội đặt ra. Mỗi công dân phải xác định được việc học tập là nhu cầu tự thân của mỗi người, trở thành lẽ sống của mỗi người mang lại ý nghĩa đạo đức và văn hóa chứ không chi đơn thuần học là để kiếm tấm bằng, kiếm việc làm có thu nhập cao…. Xét về phương diện xã hội, trong xã hội học tập, khi mỗi công dân có nhu cầu học, có thói quen học tập thì họ sẽ đáp ứng nhu cầu học tập của mình bằng nhiều phương thức học tập khác nhau, các hình thức học tập đa dạng, linh hoạt.
3. Trước định hướng xây dựng và triển khai mô hình “công dân học tập” trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0 của Tỉnh Phú Thọ, Trường đại hoc Hùng Vương xác định việc phát triển nhu cầu nhận thức cho người học từ đó hình thành kỹ năng tự học cho người học là một việc làm quan trọng. Trong nhà trường, tự học có quan hệ chặt chẽ với quá trình dạy học nhưng có tính độc lập tương đối và mang sắc thái cá nhân. Việc sinh viên tự giác học tập là một tromng những nguyên nhân bên trong thúc đẩy hoạt động học tập có kết quả. Trong dạy học, phát triển kỹ năng tự học có chú ý nhiều đến việc hình thành và phát triển động cơ học tập cho sinh viên để sinh viên chủ động tích cực chiếm lĩnh đối tượng, giáo dục thái dộ tích cực đối với học tập, chú ý tác động dến phương pháp học tập nhằm nâng cao khả năng học tập độc lập ở sinh viên. Kỹ năng tự học giúp người học chuẩn bị học tập suốt đời, có khả năng điều khiển việc học tập và khả năng thực hành. Nhà trường xác định phát triển nhu cầu nhận thức và kỹ năng tự học sẽ giúp cho mỗi sinh viên có thể học tập thường xuyên, học tập suốt đời vì họ thấy cần thiết phải khám phá và họ cũng thấy thích thú khi chiếm lĩnh được những tri thức mà họ thấy cần thiết. Trong quá trình học ở trường, với sự giúp đỡ của giảng viên, sinh viên có thể và cần phải hình thành cho mình một năng lực tự học suốt đời - là nòng cốt tiến tới xây dựng và triển khai mô hình “công dân học tập” trên địa bàn Tỉnh Phú Thọ.
Trong môi trường xã hội hiện nay, công nghệ thông tin phát triển nhanh và mạnh với những ứng dụng ngày càng nhiều của nó giúp con người có điều kiện học tập và làm việc thuận lợi hơn. Trường Đại học Hùng Vương đã phát triển năng lực tự học cho sinh viên, xem tự học là một hình thức hoạt động nhận thức của cá nhân nhằm nắm vững tri thức, kỹ năng, thái độ do chính người học tiến hành. Người học tự lập kế hoạch, tự lựa chọn nội dung đối tượng học tập, việc tự học có thể được tiến hành ở trên lớp hoặc ngoài lớp học. Quá trình tự học của sinh viên là yếu tố trực tiếp quyết định chất lượng giáo dục, là điều kiện cần thiết để giúp họ phát triển nhận thức, thỏa mãn nhu cầu tiếp nhận thông tin mọi lúc, mọi nơi. Chính vì thế, nhà trường xác định cần thiết phải trang bị cho người học những kỹ năng học tập cơ bản trong môi trường hiện đại. Đó là những nhóm kỹ năng như: 1/ Kỹ năng nhận thức học tập; 2/ Kỹ năng quản lý học tập; 3/ Kỹ năng giao tiếp học tập.
Những kỹ năng nhận thức học tập giúp cho người học nhận thức tốt nội dung học vấn trong các học phần hoặc cả khi cần học bất cứ cái gì, ở đâu. Những kỹ năng này bao gồm: kỹ năng tìm kiếm và khai thác các nguồn học tập như kỹ năng đọc sách báo, kỹ năng nghe, ghi, kỹ năng tra cứu thông tin trên mạng…; kỹ năng xử lý, đánh giá thông tin như kỹ năng phản biện, phán đoán, lập luận, lựa chọn thông tin, phát hiện và giải quyết vấn đề; kỹ năng áp dụng, phát triển kết quả nhận thức và học tập dưới những hình thức khác nhau như kỹ năng áp dụng kiến thức đã học để đánh giá sự kiện trong cuộc sống, kỹ năng chuyển hóa tri thức thành năng lực thực hiện trong những công việc trong cuộc sống.
Những kỹ năng quản lý học tập bao gồm: kỹ năng tổ chức môi trường học tập cá nhân; kỹ năng hoạch định hoạt động học tập; kỹ năng kiểm tra, đánh giá quá trình và kết quả học tập,…
Những kỹ năng giao tiếp trong học tập gồm có: kỹ năng trình bày bằng văn bản; kỹ năng ứng xử, thể hiện hành vi khi giao tiếp với người khác; kỹ năng giao tiếp nhờ sử dụng phương tiện, công nghệ thông tin hiện đại vào mục đích học tập như tham gia các diễn đàn, khai thác thông tin lành mạnh trên mạng xã hội…
Phát triển nhu cẩu nhận thức gắn với xây dựng động cơ học tập và hình thành kỹ năng tự học cho sinh viên trong nhà trường đại học là một trong những điều kiện để góp phần xây dựng và triển khai mô hình “công dân học tập”
III. Kết luận
Xây dựng và triển khai mô hình “công dân học tập” phải làm cho việc học trở thành nhu cầu, hứng thú, giá trị của mỗi công dân, tạo nên động cơ học tập đúng đắn của người học. Tuyên truyền, nâng cao nhận thức cho mọi người dân về ý nghĩa của việc học tập, của việc học tập thường xuyên, suốt đời đối với bản thân, gia đình, cộng đồng và xã hội. Tuy nhiên, nếu mỗi người chỉ dừng lại ở việc nhận thức không thôi thì chưa đủ mà còn phải biến nhận thức thành hành động học tập cụ thể. Hệ thống nhà trường nói chung, các trường đại học nói riêng phải phát triển cho người học nhu cầu nhận thức, người học cần nắm được phương pháp, kỹ năng tự học. Trong một xã hội bùng nổ thông tin, tri thức tăng lên theo cấp số nhân, mỗi cá nhân phải biết cách tự tìm kiếm, lựa chọn, tiếp thu những kiến thức cần thiết cho mình. Năng lực tự học, tự nghiên cứu và kỹ năng sống nói chung, phải được tích lũy trong quá trình học tập, chứ không phải được hình thành tách biệt. Điều muốn nhấn mạnh ở đây là, trong việc xây dựng và triển khai mô hình “công dân học tập”, việc huấn luyện phương pháp, kỹ năng tự học và phát triển nhu cầu nhận thức cho người học là một điều kiện cần thiết.
TS. Phan Thị Tình - TS. Lê Thị Xuân Thu - Trường Đại Học Hùng Vương, Phú Thọ
TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Phạm Tất Dong (2005) Xây dựng xã hội học tập - Một cuộc cách mạng về giáo dục, Kỷ yếu Hội thảo khoa học của Hội Khoa học GD &Tâm lý, Đồ sơn Hải phòng 6/ 2005
- Reginald D. Chambault (2012), John dewey on education – John deweey về giáo dục, NXB Trẻ.
- Nguyễn Ngọc Phú (chủ biên ), (2005), Tiến tới một xã hội học tập ở Việt Nam, NXB Đại học quốc gia Hà Nội.
- Đào Thị Oanh (1999), Tâm lý học lao động, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, tr.209-213.
- Trần Quốc Thành- Nguyễn Đức Sơn- Trần Thị Lệ Thu (2017), giáo trình Tâm lý học giáo dục, NXB Đại học sư phạm.
[1] Reginald D. Chambault (20120), John dewey on education – John deweey về giáo dục, NXB Trẻ.
[2] Trần Quốc Thành- Nguyễn Đức Sơn- Trần Thị Lệ Thu (2017), giáo trình Tâm lý học giáo dục, NXB Đại học sư phạm.
[3] Đào Thị Oanh (1999), Tâm lý học lao động, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, tr.209-213.